Giâm hom là gì? Các công bố khoa học về Giâm hom

Giâm hôm là một thuật ngữ trong y học, được sử dụng để chỉ sự giảm bớt hoặc mất mặt hàng ngày trong cơ thể con người. Điều này thường xảy ra do sự thiếu ngủ, că...

Giâm hôm là một thuật ngữ trong y học, được sử dụng để chỉ sự giảm bớt hoặc mất mặt hàng ngày trong cơ thể con người. Điều này thường xảy ra do sự thiếu ngủ, căng thẳng, căng thẳng, hoặc các vấn đề sức khỏe khác. Khi một người bị giảm hôm, họ có thể cảm thấy mệt mỏi, yếu đuối, mất tập trung, mất hứng thú và có khả năng giảm hiệu suất và sự tập trung trong công việc hàng ngày.
Giảm hôm là hiện tượng mà người ta cảm thấy mệt mỏi, uể oải, mất năng lượng và không có khả năng hoạt động với hiệu suất tốt như bias thường. Nó thường xuyên xảy ra sau khi không có giấc ngủ đủ hoặc không có giấc ngủ chất lượng. Một số nguyên nhân gây ra giảm hôm bao gồm:

1. Thiếu ngủ: Khi không ngủ đủ giấc trong một khoảng thời gian dài, cơ thể không có đủ thời gian để phục hồi và nạp lại năng lượng. Điều này dẫn đến sự mệt mỏi và giảm hiệu suất.

2. Căng thẳng: Các tình huống căng thẳng, áp lực công việc, vấn đề gia đình hoặc tình cảm có thể gây ra stress và làm tăng mức độ căng thẳng. Sự căng thẳng kéo dài có thể làm giảm chất lượng giấc ngủ và kéo theo giảm hôm.

3. Vấn đề sức khỏe: Một số bệnh lý như rối loạn giấc ngủ, bệnh tiểu đường, bệnh lý tâm lý như trầm cảm, lo âu hoặc căng thẳng tâm lý có thể gây ra giảm hôm.

4. Sử dụng chất kích thích: Tiêu thụ quá nhiều caffeine, thuốc lá, rượu và các chất kích thích khác cũng có thể ảnh hưởng đến giấc ngủ và gây ra giảm hôm.

5. Rèn luyện không tốt: Cách sống không lành mạnh, chế độ ăn uống không cân đối, việc không tập luyện đều đặn hoặc thiếu hoạt động thể chất có thể làm giảm hôm.

Để giảm giảm hôm, người ta nên tạo ra một môi trường ngủ thoải mái, tuân thủ các quy tắc giấc ngủ hợp lý như đảm bảo giấc ngủ đủ khoảng thời gian (khoảng 7-9 giờ mỗi đêm), duy trì lịch trình ngủ đều đặn, tránh thức khuya và giới hạn hoạt động kích thích trước giờ ngủ. Nếu giảm hôm liên tục và không cải thiện, nên tham khảo ý kiến của bác sĩ để kiểm tra và điều trị các vấn đề sức khỏe liên quan.
Cụ thể hơn, giảm hôm (hay còn gọi là mất ngủ) có thể được chia thành hai loại:

1. Giảm hôm cấp tính (acute insomnia): Đây là tình trạng giảm hôm ngắn hạn, thường kéo dài từ vài ngày đến vài tuần. Nguyên nhân gây ra giảm hôm cấp tính có thể là căng thẳng tạm thời, thay đổi môi trường ngủ (như di chuyển đến một nơi mới), tác động từ môi trường (như tiếng ồn, ánh sáng mạnh), hoặc do sử dụng chất kích thích (như caffeine, thuốc lá). Giảm hôm cấp tính thường giảm đi khi nguyên nhân gây ra được giải quyết hoặc khuếch đại.

2. Giảm hôm kinh niên (chronic insomnia): Đây là tình trạng giảm hôm kéo dài, kéo theo ít nhất ba tháng liên tiếp. Giảm hôm kinh niên có thể liên quan đến các rối loạn giấc ngủ như mất ngủ theo chu kỳ tự nhiên (circadian rhythm sleep disorder), giấc ngủ nông (sleep apnea), chứng chóng mặt khi ngủ (narcolepsy) hoặc hội chứng chân rụng (restless legs syndrome). Ngoài ra, nó cũng có thể do rối loạn tâm lý như trầm cảm, lo âu hoặc căng thẳng.

Các triệu chứng của giảm hôm có thể bao gồm:

- Khó ngủ ban đêm.
- Thức giấc nhiều lần trong đêm và khó lấy lại giấc ngủ.
- Thức dậy quá sớm vào buổi sáng.
- Cảm thấy mệt mỏi, uể oải, thiếu sinh lực và sức khỏe.
- Khó tập trung và thiếu sự tập trung trong công việc.
- Thay đổi tâm trạng, cáu giận, lo lắng.

Để giảm giảm hôm, có một số biện pháp có thể thực hiện:

- Đảm bảo môi trường ngủ thoải mái: Bạn nên có một giường và gối thoải mái, một phòng yên tĩnh và tối, và nhiệt độ phòng mát mẻ để tạo một môi trường ngủ tốt.

- Tuân thủ lịch trình ngủ: Thử đặt một lịch trình ngủ cố định và tuân thủ nó hàng ngày, bao gồm giờ đi ngủ và giờ thức dậy.

- Thực hiện các thói quen giấc ngủ tốt: Tránh sử dụng điện thoại, máy tính hoặc các thiết bị có đèn màu sáng trước khi đi ngủ, hạn chế hoặc ngừng sử dụng caffeine và các chất kích thích trong thời gian gần giờ ngủ.

- Kỹ năng quản lý stress: Học cách giảm căng thẳng bằng các phương pháp thư giãn như yoga, thiền, massage hoặc các hoạt động giảm stress khác. Nếu cảm thấy lo lắng hoặc căng thẳng, hãy tìm hiểu cách giải quyết nó và hỗ trợ tâm lý khi cần thiết.

Nếu các biện pháp phòng ngừa và tự chăm sóc không giúp cải thiện giảm hôm, bạn nên tìm sự tư vấn và khám bác sỹ để xác định nguyên nhân cụ thể và nhận liệu pháp hợp lý.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "giâm hom":

Các yếu tố dự đoán cái chết tại nhà ở bệnh nhân ung thư điều trị giảm nhẹ Dịch bởi AI
Journal of Palliative Care - Tập 16 Số 1 - Trang 23-28 - 2000

Với những thay đổi gần đây trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, có sự nhấn mạnh lớn hơn vào việc cung cấp dịch vụ chăm sóc tại nhà, bao gồm cả hỗ trợ gia đình để tạo điều kiện cho nhiều cái chết tại nhà hơn. Tuy nhiên, cái chết tại nhà có thể không thực tiễn hoặc không mong muốn trong mọi tình huống gia đình, vì vậy cần có một phương pháp khách quan để đánh giá khả năng xảy ra cái chết tại nhà trong từng trường hợp gia đình cụ thể. Mục đích của nghiên cứu này là mô tả vai trò tương đối của các yếu tố dự đoán cái chết tại nhà trong một nhóm bệnh nhân chăm sóc giảm nhẹ mắc ung thư giai đoạn tiến triển. Một bảng hỏi đã được xây dựng như một phương tiện để đánh giá khả năng xảy ra cái chết tại nhà. Năm câu hỏi đã được đưa vào. Chín mươi bảng hỏi đã được các điều phối viên chăm sóc tại nhà phát hành. Một bảng hỏi theo dõi đã được thực hiện để ghi lại địa điểm xảy ra cái chết. Trong số 73 bệnh nhân có thể đánh giá, 34 (47%) đã chết tại nhà và 39 (53%) đã chết ở bệnh viện hoặc nhà chăm sóc giảm nhẹ. Mong muốn có một cái chết tại nhà của cả bệnh nhân và người chăm sóc, sự hỗ trợ của bác sĩ gia đình và sự có mặt của hơn một người chăm sóc đều có sự liên quan đáng kể đến cái chết tại nhà. Phân tích hồi quy logistic đã xác định mong muốn có cái chết tại nhà của cả bệnh nhân và người chăm sóc là yếu tố dự đoán chính cho cái chết tại nhà. Sự có mặt của hơn một người chăm sóc cũng có thể dự đoán cái chết tại nhà. Bảng hỏi này tương đối đơn giản và, nếu kết quả của chúng tôi được xác thực, có thể được sử dụng để dự đoán những người sẽ không có cái chết tại nhà.

#cái chết tại nhà #bệnh nhân ung thư #chăm sóc giảm nhẹ #yếu tố dự đoán #đánh giá khả năng
Sự sinh tồn của thực vật liên quan đến kích thước hạt giống dọc theo các gradient môi trường: một nghiên cứu dài hạn từ các cộng đồng thực vật hàng năm ở vùng bán khô hạn và Địa Trung Hải Dịch bởi AI
Journal of Ecology - Tập 98 Số 3 - Trang 697-704 - 2010
Tóm tắt

1. Mối quan hệ tích cực giữa kích thước hạt giống và sự sống sót của thế hệ con là một giả thiết quan trọng trong lý thuyết sinh thái liên quan đến chiến lược lịch sử sinh hội. Tuy nhiên, mối quan hệ này không chắc chắn đối với sự sinh tồn suốt đời vì chỉ có bằng chứng vững chắc cho các giai đoạn cây non sớm. Hơn nữa, hiệu ứng của sự biến đổi môi trường theo không gian và thời gian, và của các nhóm chức năng thực vật đối nghịch nhau trên mối quan hệ này vẫn chưa được nghiên cứu nhiều.

2. Chúng tôi đã điều tra sự sinh tồn và sự biến thiên giữa các năm trong đó. Chúng tôi kiểm tra xem mối quan hệ của chúng với kích thước hạt giống (i) liệu có được duy trì cho đến khi sinh sản, (ii) thay đổi dọc theo gradient môi trường và (iii) khác nhau giữa các nhóm chức năng (cỏ, đậu, cây thảo dược).

3. Sự sinh tồn được theo dõi từ cây non đã thấy cho đến cây sinh sản trong 49 loài hàng năm trong điều kiện tự nhiên trong suốt 7 năm tại ba địa điểm dọc theo một gradient lượng mưa dốc. Sau đó, chúng tôi liên hệ sự sinh tồn trung bình trên mỗi loài và sự biến thiên giữa các năm trong sự sinh tồn với kích thước hạt giống, địa điểm dọc theo gradient và nhóm chức năng.

4. Kích thước hạt lớn hơn có liên quan đến sự sinh tồn cao hơn và sự biến thiên giữa các năm thấp hơn. Dọc theo gradient lượng mưa, chúng tôi không phát hiện sự khác biệt trong mối quan hệ kích thước hạt - sinh tồn; tuy nhiên, sự biến thiên giữa các năm là thấp nhất ở địa điểm nhiều ẩm nhất nơi không thấy mối quan hệ giữa sự biến thiên giữa các năm với kích thước hạt giống. Đậu cho thấy sự sinh tồn thấp hơn và biến thiên giữa các năm cao hơn so với cỏ.

5. Phát hiện của chúng tôi chỉ ra rằng kích thước hạt giống lớn hơn mang lại lợi thế sinh tồn vượt khỏi giai đoạn cây non đến khi sinh sản trong các loài hàng năm. Kích thước hạt lớn hơn cũng cung cấp chiến lược giảm thiểu rủi ro trong môi trường không thể đoán trước theo thời gian. Sự thuận lợi của môi trường gia tăng dọc theo gradient có thể có ít ảnh hưởng đến tỷ lệ sinh tồn nhưng làm giảm sự biến thiên sinh tồn giữa các năm và do đó làm giảm lợi ích của chiến lược giảm thiểu rủi ro của kích thước hạt lớn hơn. Chúng tôi đề xuất rằng phản ứng đối nghịch của đậu và cỏ có thể một phần đến từ sự khác biệt trong trạng thái ngủ của hạt giống.

#sinh tồn #kích thước hạt giống #gradient môi trường #phương pháp giảm thiểu rủi ro #loài thực vật hàng năm #biến đổi khí hậu #nhóm chức năng
Sự tiếp xúc với các yếu tố môi trường và lối sống liên quan đến rối loạn tăng động giảm chú ý ở trẻ em — Tổng quan các nghiên cứu dịch tễ học Dịch bởi AI
Nofer Institute of Occupational Medicine - Tập 25 Số 4 - 2012
Tóm tắt

Rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) là một trong những rối loạn phát triển thần kinh phổ biến nhất ở trẻ em. Mặc dù các cơ chế dẫn đến sự phát triển của ADHD vẫn chưa rõ ràng, nhưng các yếu tố di truyền và môi trường đã được xác định có liên quan. Những yếu tố này bao gồm kim loại nặng và tiếp xúc với hóa chất, yếu tố dinh dưỡng và lối sống/tâm lý xã hội. Mục tiêu của bài tổng quan này là điều tra mối liên hệ giữa ADHD hoặc các triệu chứng liên quan đến ADHD và những yếu tố môi trường phổ biến như phthalates, bisphenol A (BPA), khói thuốc lá, hydrocarbon thơm đa vòng (PAHs), hóa chất polyfluoroalkyl (PFCs) và rượu. Tìm kiếm trên Medline, PubMed và Ebsco đã được thực hiện để xác định các nghiên cứu phân tích mối liên hệ giữa sự tiếp xúc với chất độc môi trường trước và sau khi sinh đối với trẻ em và ADHD hoặc các triệu chứng liên quan đến ADHD. Bài tổng quan này chỉ tập trung vào các nghiên cứu trên con người được công bố từ năm 2000 trở đi, bằng tiếng Anh, trong các tạp chí đã được kiểm duyệt. Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về mối liên hệ giữa các yếu tố nguy cơ môi trường và ADHD hoặc triệu chứng ADHD, kết quả không đồng nhất. Hầu hết các nghiên cứu trong lĩnh vực này, tập trung vào sự tiếp xúc với khói thuốc lá, đã tìm thấy mối liên hệ giữa sự tiếp xúc đó với ADHD và các triệu chứng ADHD. Mặt khác, tác động của phthalates, BPA, PFCs, PAHs và rượu ít được nghiên cứu hơn và không cho phép đưa ra kết luận chắc chắn về mối liên hệ với các kết quả quan tâm.

#Rối loạn tăng động giảm chú ý #yếu tố môi trường #yếu tố lối sống #phthalates #bisphenol A #khói thuốc lá #hydrocarbon thơm đa vòng #hóa chất polyfluoroalkyl #alcohol.
NGHIÊN CỨU GIÂM HOM CÂY XÁ XỊ CINNAMOMUM PARTHENOXYLON (JACK) MEISN. LÀM CƠ SỞ CHO CÔNG TÁC BẢO TỒN Ở VƯỜN QUỐC GIA TAM ĐẢO, TỈNH VĨNH PHÚC
Bài báo  trình bày kết quả nghiên cứu giâm hom cây Xá Xị Cinnamomum parthenoxylon (Jack) Meisn. ở Vườn Quốc gia Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Kết quả nghiên cứu đã khẳng định, chất điều hòa sinh trưởng, giá thể và thời gian xử lí hóa chất cho hom có ảnh hưởng rõ rệt tới tỉ lệ ra rễ và chất  lượng rễ của cây hom Xá Xị. IBA nồng độ 250 ppm  là phù hợp nhất khi giâm hom Xá Xị, trên giá thể thích hợp nhất là hỗn hợp 60 % cát vàng và 40 % mùn cưa, cho tỉ lệ ra rễ cao nhất và chất lượng rễ tốt nhất. Thời gian xử lí hom tốt nhất bằng IBA nồng độ 250 ppm là 30 phút.
Điều trị kháng sinh phòng ngừa bằng TMP-SMX làm giảm tỷ lệ viêm phổi kẽ ở bệnh nhân lymphoma tế bào B đang hóa trị liệu Dịch bởi AI
BMC Cancer - - 2020
Tóm tắt Đặt vấn đề

Nhiều nghiên cứu đã báo cáo tỉ lệ viêm phổi kẽ (IP) ở bệnh nhân mắc lymphoma không Hodgkin (NHL) đang điều trị hóa chất kết hợp với rituximab; tuy nhiên, phương pháp phòng ngừa hiệu quả cho IP vẫn chưa được làm rõ. Nghiên cứu này nhằm khám phá hiệu quả phòng ngừa của trimethoprim-sulfamethoxazole (TMP-SMX) đối với IP và xác định các yếu tố nguy cơ liên quan đến IP ở bệnh nhân NHL.

Phương pháp

Giữa tháng 3 năm 2013 và tháng 4 năm 2018, 498 bệnh nhân (264 nam, 53%) mắc NHL tế bào B đang điều trị hóa chất RCHOP-like đầu tay với rituximab kết hợp cyclophosphamide, doxorubicin, vincristine, và prednisone đã được tuyển vào nghiên cứu này.

Kết quả

Các bệnh nhân này có độ tuổi trung bình là 56 tuổi, và 311 trong số 498 bệnh nhân (62.4%) đã được sử dụng điều trị phòng ngừa TMP-SMX với tần suất một lần mỗi ngày. IP xảy ra ở 65 bệnh nhân (13.1%), cho thấy sự giảm đáng kể trong tỷ lệ mắc IP (21.4% so với 8.0%; p < 0.001). Trong số bệnh nhân được điều trị bằng TMP-SMX, 2 (1.2%) có biểu hiện phát ban, 38 (12.2%) bị buồn nôn và nôn, 52 (16.7%) có dấu hiệu giảm bạch cầu trung tính, và 18 (5.8%) bị rối loạn chức năng thận. Phân tích đơn biến và đa biến đều cho thấy giới tính (nam), tiền sử bệnh tiểu đường, và việc không áp dụng điều trị TMP-SMX phòng ngừa là các yếu tố nguy cơ đáng kể liên quan đến IP. Sự tiến triển của bệnh được ghi nhận ở 55/311 (17.7%) bệnh nhân đã điều trị TMP-SMX phòng ngừa và 63/187 (33.7%) bệnh nhân không điều trị (p < 0.001).

Kết luận

Nghiên cứu này tiết lộ rằng sự xuất hiện của IP là phổ biến ở bệnh nhân NHL tế bào B đang hóa trị kết hợp với rituximab. IP có thể được giảm với điều trị phòng ngừa TMP-SMX uống một lần mỗi ngày.

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA NỒNG ĐỘ HAI CHẤT ĐIỀU HÒA SINH TRƯỞNG (IBA VÀ NAA) ĐẾN GIÂM HOM CHÈ VẰNG (Jasminum subtriplinerve Blume) TẠI THỪA THIÊN HUẾ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp - Tập 6 Số 3 - Trang 3230-3238 - 2022
Nghiên cứu được tiến hành trên hai chất điều hòa sinh trưởng IBA và NAA với các nồng độ khác nhau nhằm đánh giá hiệu quả giâm hom cành chè vằng ở vườn ươm, tại Trung tâm thực hành Lâm nghiệp, trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế; từ ngày 30/7/2021 đến 30/10/2021. Thí nghiệm được bố trí theo phương pháp khối hoàn toàn ngẫu nhiên (RDCB). Các hom cành được xử lý bằng IBA hoặc NAA ở bốn mức nồng độ khác nhau (250, 500, 750 và 1000 ppm) sau khi xử lý bằng dung dịch Benlate 0,5%, trong khi các công thức đối chứng chỉ được xử lý bằng dung dịch Benlate 0,5% và có 3 lần nhắc lại. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các chất điều hòa sinh trưởng có ảnh hưởng đến các chỉ tiêu theo dõi ở các mức nồng độ khác nhau là không giống nhau, kết quả tốt nhất lần lượt thuộc về 1000 ppm IBA và 750 ppm NAA đối với cả phần chồi và phần rễ của hom. Ở các nồng độ này, phần chồi sau 90 ngày theo dõi cho thấy, tỷ lệ sống đạt 84,44% và 82,22%, tỷ lệ ra chồi đạt 94,357% và 98,57% so với tổng hom sống, số chồi trung bình trên mỗi hom là 2,64 và 3,09, chiều dài chồi dài nhất trên mỗi hom đạt 9,60 và 9,62, tổng số lá trung bình trên mỗi hom đạt 11,78 và 12,07. Đối với đặc tính của rễ sau 90 ngày theo dõi bao gồm, tỷ lệ ra rễ bằng tỷ lệ sống, số rễ trung bình trên mỗi hom đạt 8,39 và 8,19, chiều dài rễ trung bình trên mỗi hom đạt 6,32 và 6,80, chỉ số ra rễ đạt 53,60 và 55,61.
#Chất điều hòa sinh trưởng #Chè vằng #Giâm hom
10. hiệu quả giảm đau điện châm nhóm huyệt thượng liêu, thứ liêu, trung liêu trên bệnh nhân sau mổ trĩ theo phương pháp milligan morgan từ ngày thứ 2
Đau sau mổ cắt trĩ là một vấn đề phổ biến, do đó việc tìm các giải pháp giảm đau sau mổ cắt trĩ an toàn, ít tác dụng phụ luôn là một vấn đề cần được nghiên cứu. Nghiên cứu nhằm đánh giá tác dụng giảm đau sau mổ trĩ của điện châm nhóm huyệt Thượng liêu -Thứ liêu -Trung liêu. 60 bệnh nhân sau mổ trĩ bằng phương pháp Milligan Morgan chia 2 nhóm: điện châm và dùng thuốc Efferalgan Codein. Kết quả cho thấy điểm VAS (Visual Analogue Scale) giảm trung bình ở nhóm nghiên cứu và nhóm chứng là 2,97 ± 0,77 và 2,5 ± 1,04 so với trước điều trị (p < 0,05). Chưa thấy tác dụng không mong muốn của nhóm sử dụng điện châm trên lâm sàng.
#Điện châm #giảm đau sau mổ trĩ #Thượng liêu - Thứ liêu - Trung liêu
Kinh nghiệm của bệnh nhân với việc ra quyết định chung trong chăm sóc giảm nhẹ tại nhà - điều hướng những quyết định quan trọng trong cuộc đời Dịch bởi AI
BMC Palliative Care - Tập 23 Số 1
Tóm tắt Nền tảng

Nghiên cứu này đề cập tới vấn đề ra quyết định chung (SDM) trong bối cảnh chăm sóc giảm nhẹ tại nhà ở Na Uy. Tầm quan trọng của sự tham gia của bệnh nhân trong SDM được công nhận rộng rãi, và nhiều bệnh nhân muốn tham gia vào các quyết định về chăm sóc và điều trị. Tuy nhiên, vẫn còn cần có thêm kiến thức về những người khởi xướng và cách tiếp cận SDM trong bối cảnh chăm sóc giảm nhẹ tại nhà, đặc biệt là từ góc độ của bệnh nhân. Mục tiêu của nghiên cứu này là hiểu về kinh nghiệm và sở thích của bệnh nhân đối với SDM trong chăm sóc giảm nhẹ tại nhà, nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc và định hướng kế hoạch dịch vụ y tế.

Phương pháp

Chúng tôi đã sử dụng thiết kế khám phá định tính. Một cách tiếp cận chú giải được áp dụng, và dữ liệu đã được thu thập thông qua các cuộc phỏng vấn sâu với 13 bệnh nhân.

Kết quả

Nghiên cứu đã phát hiện ra một chủ đề tổng thể là "Điều hướng để đạt được quyết định của riêng mình", bao gồm ba tiểu chủ đề: "Bị mắc kẹt trong cuộc sống mà không có quyết định để hành động"; "Đầu hàng cho người khác và để người khác giải quyết các quyết định"; "Tiếp tục là chính mình mà không tập trung vào bệnh tật và việc ra quyết định".

Kết luận

Những phát hiện nhấn mạnh nhu cầu về các phương pháp linh hoạt, lấy con người làm trung tâm trong SDM, được điều chỉnh theo khả năng hiểu biết về sức khỏe biến động và sở thích thay đổi của bệnh nhân trong bối cảnh chăm sóc giảm nhẹ. Nghiên cứu của chúng tôi góp phần vào sự hiểu biết về SDM trong chăm sóc giảm nhẹ bằng cách làm nổi bật cách bệnh nhân điều hướng sự cân bằng giữa quyền tự chủ và sự phụ thuộc vào các chuyên gia chăm sóc sức khỏe. Nghiên cứu trong tương lai nên khám phá cách mà các hệ thống y tế, bao gồm cả vai trò của các chuyên gia chăm sóc sức khỏe trong hệ thống, có thể thích ứng với nhu cầu động của bệnh nhân, nhằm đảm bảo rằng SDM sẽ vẫn là một quá trình hỗ trợ và trao quyền cho bệnh nhân ở mọi giai đoạn của bệnh tật.

NGHIÊN CỨU KỸ THUẬT NHÂN GIỐNG CÂY ĐẲNG SÂM (Codonopsis javanica(Blume) Hook.F & Thoms) PHÂN BỐ TỰ NHIÊN TẠI SƠN LA
TẠP CHÍ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP - Số 6 - Trang - 2024
Đẳng sâm là dạng cây dây leo, có tên khoa học là (Codonopsis javanica(Blume) Hook.F & Thoms). Đẳng sâm có giá trị dược liệu, kinh tế cao và ý nghĩa bảo tồn lớn. Nghiên cứu này được thực hiện trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của Bộ Giáo dục và Đào tạo, mã số B2019 - TTB - 03 tại khu vực Sơn La. Nghiên cứu nhân giống bằng hạt được thực hiện với 4 lô hạt tương ứng 3 điểm thu hái (huyện Vân Hồ, huyện Sông Mã, huyện Thuận Châu và hỗn hợp 3 điểm). Kết quả cho thấy quả có đường kính từ 1,2 - 1,3 cm, độ thuần hạt từ 88,0 - 91,0%, khối lượng 1.000 hạt trung bình là 0,194g, có từ 810 - 893 hạt/quả, từ 5.076.142 - 5.208.333 hạt/ kg; tốc độ nảy mầm từ 7,4 - 7,5 ngày. Tỷ lệ nảy mầm không có sự khác biệt rõ rệt giữa các lô hạt và có thể gộp mẫu hạt tại các lô để nghiên cứu. Tỷ lệ nảy mầm của hạt từ 89,0 - 91,3%, xử lý hạt ở nhiệt độ tốt nhất là 40oC. Giá thể tốt nhất cho gieo thẳng hạt Đẳng sâm là 70% đất tầng mặt + 20% trấu hun + 10% phân chuồng hoai mục. Nhân giống bằng củ cho tỷ lệ sống từ 87,8 - 91,1% và không có sự khác biệt giữa các kích thước củ khác nhau. Sau 45 ngày giâm củ, chiều dài chồi củ từ 8,9-11,5 cm, củ có kích thước từ 1-1,5 cm cho sinh trưởng chồi tốt nhất. Nhân giống bằng giâm hom thân không thực sự phù hợp, tỷ lệ sống dao động từ 23,33 - 63,33%. Cao nhất tại thí nghiệm thuốc NAA nồng độ 400ppm với thời gian nhúng thuốc 20s. Thuốc IAA cho tỷ lệ sống thấp nhất, tiếp theo đến IBA và cao nhất là NAA cả về chiều dài rễ của hom
#Đẳng sâm # #nhân giống từ hạt #giâm hom thân # #nhân giống bằng củ # #tỉnh Sơn La.
ẢNH HƯỞNG CỦA BA LOẠI AUXIN ĐẾN SỰ RA RỄ CÂY VIOLA (Viola tricolor L.) GIÂM HOM
Viola là cây thân thảo, thuộc chi Viola. Loài cây này có hoa đẹp nên được sử dụng làm cây trang trí. Đồng thời, cây viola có nhiều tác dụng dược học quý. Giâm cành là phương thức nhân giống vô tính phổ biến đối với nhiều loại cây trồng, trong đó nhiều chất điều hòa đã được nghiên cứu và sử dụng bao gồm cả auxin. Trong nghiên cứu này, ảnh hưởng của một số loại chất điều hòa sinh trưởng nhóm auxin (IAA, IBA và NAA) ở các nồng độ khác nhau (50, 100 và 200 ppm) đến quá trình giâm hom cây viola đã được khảo sát. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng cả ba loại auxin với nồng độ khác nhau có tác động làm tăng tỷ lệ ra rễ, số lượng rễ và chiều dài rễ cây viola so với đối chứng. IAA có tác động tới tỷ lệ ra rễ tốt hơn so với IBA và NAA ở cùng nồng độ. Tuy nhiên, NAA có hiệu quả làm tăng số lượng rễ và chiều dài rễ cao hơn so với IAA và IBA ở cùng nồng độ. Số lượng rễ của cành giâm viola đạt mức cao nhất khi được xử lý với NAA 200 ppm. Trong khi đó, chiều dài rễ lớn nhất được quan sát ở công thức xử lý NAA 50 ppm.
#IAA #IBA #NÂ #giâm cành #sự tạo rễ #Viola tricolor L
Tổng số: 113   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10